Tử vong do bệnh tim mạch ngày càng gia tăng ở Việt Nam

Tại Việt Nam, xu hướng tử vong do bệnh tim mạch ngày càng tăng, trong đó tử vong do bệnh mạch máu não chiếm tỷ lệ cao nhất. Các yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch và xơ vữa động mạch bao gồm: hút thuốc, thừa cân béo phì, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, đái tháo đường…

Bệnh tim mạch là một trong các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, cũng như tại Việt Nam. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2019, tử vong do bệnh tim mạch chiếm tới 39,5%, trong đó: bệnh mạch máu não (55,4%), bệnh tim thiếu máu cục bộ (32%), bệnh tim do tăng huyết áp (6,9%) và bệnh tim mạch khác (5,7%).

Tại Việt Nam, xu hướng tử vong do bệnh tim mạch đang ngày càng tăng, trong đó tử vong do bệnh mạch máu não chiếm tỷ lệ lớn nhất, với tỷ suất tử vong tăng từ 127,3/100.000 dân (năm 2000) lên 164,9/100.000 dân hiện nay.

Gánh nặng bệnh tật vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là gánh nặng về bệnh lý tim mạch và xu hướng trẻ hóa ở những người trong độ tuổi lao động.

Những thông tin trên được TS Vương Ánh Dương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết tại hội thảo “Quản lý bệnh tim do xơ vữa động mạch và rối loạn lipid máu tại Việt Nam” do Hội Tim mạch học Việt Nam Hội Nội tiết- Đái tháo đường Việt Nam và các đối tác tổ chức chiều 15/12 tại Hà Nội.

Tử vong do bệnh tim mạch ngày càng gia tăng ở Việt Nam - Ảnh 1.

Thông tin tại hội thảo cho thấy tử vong do bệnh tim mạch ngày càng gia tăng ở Việt Nam.

49% bệnh nhân mắc bệnh tim do xơ vữa động mạch thuộc nhóm tuổi lao động từ 15-64

Theo số liệu thống kê trong Báo cáo EvoHealth White Paper on ASCVD in Vietnam, năm 2019 có 2,4 triệu người mắc các bệnh tim mạch trong đó 65% là bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tử vong với tỉ lệ rất cao trên bệnh tim do thiếu máu cục bộ và đột quỵ nhồi máu não.

Xơ vữa động mạch ảnh hưởng phần lớn tới dân số lao động ở Việt Nam với 49% bệnh nhân mắc bệnh tim do xơ vữa động mạch thuộc nhóm tuổi lao động từ 15-64, độ tuổi lao động trẻ và là chìa khóa cho nền kinh tế Việt Nam. Và rối loạn lipid máu (máu nhiễm mỡ) là một trong những nguy cơ hàng đầu của các bệnh tim mạch.

Do đó gánh nặng do bệnh tim do xơ vữa động mạch ngày càng tăng không chỉ trên dân số người cao tuổi mà còn trên độ tuổi lao động khiến dân số lao động và lực lượng lao động tiềm năng giảm năng suất, điều này sẽ khiến gánh nặng chi phí chăm sóc y tế cho người cao tuổi ngày càng tăng, năng suất nền kinh tế bị ảnh hưởng trầm trọng nếu không có các chiến lược và giải pháp cấp bách để giải quyết những thách thức và nhu cầu chưa được đáp ứng của bệnh nhân tại Việt Nam.

Bệnh tim do xơ vữa động mạnh là một bệnh lý nguy hiểm, có thể để lại hậu quả trầm trọng về sức khỏe cũng như kinh tế nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

“Để giảm thiểu gánh nặng bệnh lý tim mạch nói chung và xơ vữa động mạch nói riêng với sức khỏe cộng đồng, cần phải có những hành động mạnh mẽ trước hết từ công tác phòng bệnh, giáo dục sức khỏe; sàng lọc phát hiện sớm để bệnh nhân được điều trị kịp thời, kiểm soát tích cực các yếu tố nguy cơ và ổn định mảng xơ vữa, giúp giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng sống của người bệnh”- GS.TS Huỳnh Văn Minh – Chủ tịch Hội Tim mạch học Việt Nam nhấn mạnh.

Tử vong do bệnh tim mạch ngày càng gia tăng ở Việt Nam - Ảnh 2.

Khám sàng lọc bệnh lý tim mạch cho người dân

Chủ tịch Hội Tim mạch học Việt Nam cũng cho biết thêm phòng ngừa và điều trị tim mạch là một quá trình can thiệp toàn diện từ giáo dục người dân và bệnh nhân nâng cao kiến thức về bệnh cũng như cách phòng tránh. Điều này giúp bệnh nhân phát hiện, chẩn đoán sớm và thiết lập mục tiêu điều trị cá thể hóa theo từng bệnh nhân với các mức độ nguy cơ khác nhau và có can thiệp điều trị đúng và đủ theo các hướng dẫn điều trị.

Đặc biệt, điều trị rối loạn lipid máu góp phần quan trọng vào điều trị nguyên nhân của nhiều bệnh tim mạch, do vậy việc chú trọng công tác quản lý bệnh rối loạn lipid máu sẽ giúp đảm báo quá trình chăm sóc sức khỏe bệnh nhân tim mạch luôn an toàn và hiệu quả.

Hơn 50% bệnh nhân đái tháo đường tử vong vì biến cố tim mạch

Chia sẻ về vai trò của rối loạn lipid máu trong công tác quản lý bệnh tim mạch nói chung và bệnh tim do xơ vữa động mạch nói riêng, GS.TS Trần Hữu Dàng, Chủ tịch Hội Nội tiết – Đái tháo đường Việt Nam cho biết tỷ lệ đái tháo đường hiện nay ở Việt Nam là 7,3%. Nguyên nhân tử vong chủ yếu của đái tháo đường là tổn thương tim mạch. Hơn 50% bệnh nhân đái tháo đường tử vong vì biến cố tim mạch. Hơn 90% bệnh nhân đái tháo đường có rối loạn lipid máu.

Đồng thời, rối loạn lipid máu là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh lý tim mạch nguy hiểm nên việc phát hiện sớm, quản lý, tư vấn và điều trị bệnh rối loạn lipid máu là vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao sức khỏe phòng, chống bệnh tim mạch nói chung và xơ vữa động mạch nói riêng.

Tử vong do bệnh tim mạch ngày càng gia tăng ở Việt Nam - Ảnh 3.

Tại hội thảo, TS.BS Trần Quốc Bảo, Trưởng phòng kiểm soát các bệnh không lây nhiễm, Cục Y tế Dự phòng, Bộ Y tế cũng nêu ra hàng loạt các đề xuất chính sách và biện pháp phòng, chống bệnh tim mạch. Cụ thể, phải tiếp cận toàn diện, tổng thể, bao gồm các biện pháp: Kiểm soát các yếu tố nguy cơ; quản lý dự phòng; sàng lọc phát hiện sớm; điều trị chăm sóc…

Nhấn mạnh tại hội thảo, các chuyên gia đều cho rằng gánh nặng bệnh tim mạch ngày càng tăng ở Việt Nam là một vấn đề cấp thiết đòi hỏi cần có những nỗ lực, chủ động, hợp tác đa phương giữa Chính phủ, các công ty dược phẩm và các tổ chức y tế và toàn xã hội để chung tay kiểm soát, quản lý bệnh.

Các chuyên gia cũng nhấn mạnh mục tiêu tăng cường kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh, đặc biệt là kiểm soát rối loạn lipid máu cần được xem là một phần của Kế hoạch Hành động Quốc gia tiếp theo, đẩy mạnh các biện pháp dự phòng, phát hiệu sớm và quản lý điều trị để hạn chế sự gia tăng tỷ lệ người tiền bệnh, mắc bệnh, tàn tật và tử vong sớm do bệnh tim mạch nhằm góp phần bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân.

Theo TS Vương Ánh Dương, trong thời gian qua Bộ Y tế đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế cũng đã trực tiếp đã ban hành một số chính sách và văn bản hướng dẫn quản lý bệnh tật để kiểm soát các yếu tố nguy cơ, quản lý dự phòng, sàng lọc phát hiện sớm và chăm sóc, điều trị bệnh lý tim mạch, như: Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh lây nhiễm cũng đã được xây dựng và ban hành cho giai đoạn 2015-2025; Kế hoạch quốc gia phòng, chống bệnh không lây nhiễm và rối loạn sức khỏe tâm thần giai đoạn 2022-2025, trong đó có các hoạt động phòng chống bệnh tim mạch.

Bộ Y tế cũng ban hành các hướng dẫn chuyên môn, như “Chẩn đoán và xử trí hội chứng mạch vành cấp” năm 2019, “Dự phòng tiên phát bệnh tim mạch” năm 2020…

Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn có những thách thức, khó khăn trong quản lý bệnh và kiểm soát các yếu tố nguy cơ. Gánh nặng bệnh tật vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là gánh nặng về bệnh lý tim mạch và xu hướng trẻ hóa ở những người trong độ tuổi lao động. Việc triển khai các hướng dẫn chuyên môn, quản lý điều trị bệnh lý tim mạch tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đặc biệt tại y tế cơ sở còn hạn chế.

Thái Bình – Sức khỏe và đời sống

Tags: